Tuyển chọn giống sắn giàu tinh bột và kháng bệnh khảm lá

iệc lựa chọn các giống sắn mới có khả năng kháng bệnh, thích ứng với điều kiện sinh thái của Quảng Bình được xem là hướng đi quan trọng, thay thế cho giống KM94 đã bị thoái hóa và nhiễm bệnh.

Hằng năm, Quảng Bình (nay là tỉnh Quảng Trị), trồng gần 8.000 ha sắn nguyên liệu, tập trung tại Bố Trạch, Quảng Ninh và Tuyên Hóa, với sản lượng hơn 120 ngàn tấn. Nhờ phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng và dễ canh tác trên đất đồi dốc, cây sắn trở thành cây trồng chủ lực tại nhiều địa phương miền núi, trung du của tỉnh. Nguồn thu từ trồng sắn không chỉ giúp hàng ngàn hộ nông dân ổn định cuộc sống, mà còn góp phần chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng phù hợp với đặc điểm sinh thái địa phương.
 
Tuy nhiên, những năm gần đây, sự suy thoái của giống KM94 – giống chủ lực được trồng phổ biến tại Quảng Bình trong suốt gần 25 năm qua, cùng với sự bùng phát của bệnh khảm lá – một loại bệnh nguy hiểm do virus gây ra, đang đe dọa việc sản xuất và cung cấp nguyên liệu cho hai nhà máy tinh bột sắn lớn là Nhà máy tinh bột sắn xuất khẩu Sông Dinh và Nhà máy tinh bột Long Giang.
 
Nếu như thời kỳ đầu, giống KM94 cho năng suất trung bình 50 tấn/ha thì hiện tại chỉ còn hơn 20 tấn/ha. Đồng thời, bệnh khảm lá lây lan qua hom giống và bọ phấn trắng hoành hành trên diện rộng. Ghi nhận trong năm 2023 cho thấy, toàn tỉnh có hơn 2.000 ha bị nhiễm bệnh; tại nhiều vùng, tỷ lệ nhiễm lên đến 70-100%, khiến năng suất và chất lượng củ sắn sụt giảm nghiêm trọng.
 
Trước thực trạng đó, Sở KH&CN Quảng Bình giao Công ty Cổ phần Tư vấn và Đầu tư Long Giang Thịnh thực hiện đề tài “Nghiên cứu tuyển chọn và phát triển một số giống sắn mới kháng bệnh khảm lá, năng suất và hàm lượng tinh bột cao phục vụ canh tác sắn bền vững”.
Thông qua khảo nghiệm 6 dòng/giống sắn mới thu thập từ Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc (gồm HL-KM94, HL-S14, KM505-54, HN1 – TMEB419, HN97 – AR9-48 và HN5) tại các xã Tây Trạch, Phú Định, Vĩnh Ninh, nhóm nghiên cứu đã đánh giá toàn diện khả năng thích nghi, sinh trưởng, năng suất, chất lượng tinh bột và đặc biệt là khả năng kháng bệnh khảm lá.
 
Kết quả thực nghiệm cho thấy các giống sắn mới đều phát triển tốt trong điều kiện thổ nhưỡng vùng gò đồi của tỉnh, thời gian sinh trưởng dao động từ 272 – 300 ngày.
 
Đáng chú ý, giống HN1 và HL-KM94 thể hiện nhiều ưu điểm vượt trội: tỷ lệ mọc mầm cao (84,4 – 97,9%), ít phân cành, sinh trưởng đồng đều, năng suất củ tươi đạt từ 48 – 54,9 tấn/ha, hàm lượng tinh bột cao (28,5 – 28,8%). Đặc biệt, khả năng kháng bệnh khảm lá rất đáng ghi nhận khi hầu như không xuất hiện triệu chứng bệnh ở giai đoạn cây con, tỷ lệ nhiễm ở giai đoạn 6 tháng sau trồng rất thấp. Trong khi đó, các dòng HL-S14 và KM505-54 lại bị nhiễm nặng với tỷ lệ từ 91 – 96,9%, cho thấy sự cần thiết của việc loại bỏ những giống không phù hợp trong điều kiện dịch bệnh phức tạp.
 
Hiện nay, tổng nhu cầu sắn nguyên liệu của hai nhà máy chế biến trên địa bàn tỉnh vào khoảng 150.000 tấn mỗi năm, trong khi sản lượng thực tế chỉ đáp ứng được khoảng 80%. Do đó, việc nhân rộng các giống sắn mới có năng suất và chất lượng cao như HN1 và HL-KM94 là giải pháp cấp thiết nhằm khắc phục tình trạng thiếu hụt nguyên liệu, giảm sự phụ thuộc vào nguồn cung ngoài tỉnh, đồng thời nâng cao giá trị sản phẩm sắn Quảng Bình trên thị trường.
 
Từ những kết quả bước đầu, việc lựa chọn và canh tác các giống sắn mới có khả năng kháng bệnh, thích ứng với điều kiện sinh thái của Quảng Bình được xem là hướng đi quan trọng, thay thế cho giống KM94 đã bị thoái hóa và nhiễm bệnh. Nhóm nghiên cứu cũng đã xây dựng hoàn chỉnh quy trình kỹ thuật – từ khâu chọn giống, gieo trồng, bón phân đến phòng trừ sâu bệnh – có thể áp dụng và nhân rộng cho các vùng trồng sắn khác.
 
Đề tài đã được Sở KH&CN Quảng Bình nghiệm thu, kết quả đạt.
 
Nguồn: Báo KH&PT số 1356 (số 32/2025)