Hoàn thiện quy trình sản xuất giống và nuôi ba khía

Dự án được tiến hành trong bối cảnh nguồn giống ba khía tự nhiên bị suy giảm do khai thác quá mức.
Nghề nuôi thủy sản nước lợ ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) phát triển mạnh nhưng chủ yếu tập trung vào các đối tượng truyền thống như tôm sú, cua biển, sò huyết… vốn tiềm ẩn nhiều rủi ro về môi trường và dịch bệnh. Do đó việc tìm kiếm đối tượng nuôi mới, thích ứng và bền vững là yêu cầu cấp thiết.
 
Ba khía (Sesarma mederi) được xem là loài thủy sản tiềm năng nhờ khả năng thích nghi với điều kiện rừng ngập mặn, kỹ thuật nuôi đơn giản và giá trị kinh tế cao khi có thể chế biến thành nhiều đặc sản của vùng Tây Nam Bộ. Tuy nhiên, hiện nay nguồn giống ba khía chủ yếu được khai thác từ tự nhiên, dẫn đến suy giảm nguồn lợi, đồng thời khó thu gom số lượng lớn và có tỷ lệ sống thấp khi đưa vào nuôi.
 
Trước thực trạng đó, Sở KH&CN tỉnh Cà Mau đã giao Trường Đại học Cần Thơ triển khai dự án “Hoàn thiện quy trình sản xuất giống và nuôi ba khía tại tỉnh Cà Mau”.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, ở giai đoạn 1 và 2 của ấu trùng, ba khía có kích thước cơ thể rất nhỏ, phụ bộ chưa phát triển hoàn chỉnh, khả năng bắt mồi hạn chế, do đó cần nguồn thức ăn có kích thước nhỏ, dễ tiêu hóa. Khi ấu trùng chuyển sang giai đoạn 3, kích thước cơ thể lớn hơn, cơ quan cảm giác và chân bơi phát triển rõ rệt, nhu cầu dinh dưỡng tăng cao, vì vậy cần thức ăn có kích thước lớn hơn và giá trị dinh dưỡng cao hơn. Sự kết hợp này cho tỷ lệ sống ổn định, phù hợp với điều kiện các trại giống địa phương, đảm bảo ấu trùng phát triển tốt đến giai đoạn 1 của ba khía (sau giai đoạn ấu trùng). Đây cũng là giai đoạn ba khía được xem là con giống, có thể xuất bán hoặc tiếp tục ương nuôi.
 
Các thí nghiệm cũng xác định ba khía giống tốt nhất nên được ương nuôi ở độ mặn 20–25‰, mật độ 1.000 con/m², với nguồn thức ăn là artemia sinh khối hoặc con ruốc. Quy trình sản xuất giống này đã được chuyển giao cho ba trại giống tại Cà Mau, với tỷ lệ sống trung bình của ba khía giai đoạn 1 đạt 16,5%.
 
Trong giai đoạn thử nghiệm, sáu hộ dân tham gia mô hình nuôi trong ao lót bạt đã thu được 303.750 con ba khía giống (ba khía giai đoạn 1), tỷ lệ sống trung bình đạt 81%. Đến khi thu hoạch, tỷ lệ sống dao động từ 5–24%, năng suất đạt 100–976 kg/ha (phụ thuộc vào điều kiện quản lý ao nuôi, mật độ thả, nguồn thức ăn,... ). Theo nhóm thực hiện, kết quả này chứng minh tính khả thi của quy trình nuôi thương phẩm ba khía, trong điều kiện sản xuất nông hộ.
 
Không chỉ dừng ở quy mô nghiên cứu và thử nghiệm, dự án còn mở ba lớp tập huấn cho gần 100 học viên là nông dân, cán bộ địa phương và chủ trại giống tại Năm Căn, Ngọc Hiển và Phú Tân. Thông qua đó, kỹ thuật sản xuất giống và nuôi ba khía được phổ biến rộng rãi.
 
Dự án đã được Sở KH&CN Cà Mau nghiệm thu, kết quả đạt, mở ra hướng phát triển kinh tế mới cho người dân, góp phần quản lý, khai thác hợp lý tài nguyên tự nhiên, từng bước đưa ba khía trở thành sản phẩm đặc trưng có giá trị kinh tế cao của tỉnh Cà Mau.
 
Bài đăng KH&PT số 1360 (số 36/2025)
 
Nguồn: Khoahocphattrien.vn