Thử nghiệm nuôi hàu Thái Bình Dương
Mô hình nuôi thương phẩm hàu Thái Bình Dương tại vùng cửa sông Trà Vinh cho thấy loài hàu này thích nghi tốt với môi trường, hứa hẹn mở ra hướng phát triển kinh tế bền vững.
Với mạng lưới sông ngòi rộng lớn tiếp giáp biển, tỉnh Trà Vinh (nay là tỉnh Vĩnh Long) sở hữu tiềm năng phát triển nghề nuôi thủy sản bè, đặc biệt là nuôi hàu. Tuy nhiên, các nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung vào hàu bản địa, trong khi người dân vẫn có nhu cầu mở rộng đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao hơn.
Hàu bản địa, chủ yếu là hàu sữa Việt Nam, sinh sống tự nhiên tại các cửa sông và ven biển, có tốc độ sinh trưởng chậm hơn, sau 11 tháng nuôi chỉ đạt chiều cao vỏ khoảng 50–55 mm và khối lượng trung bình 40–50 g/con. Tỷ lệ thịt trung bình của hàu bản địa chiếm khoảng 15–18% tổng trọng lượng, năng suất nuôi từ 4 đến 5 kg/m², đồng thời kém chịu biến động về độ mặn và dòng chảy, dẫn đến tỷ lệ hao hụt cao trong mùa mưa.
Trước thực tế đó, Sở KH&CN Trà Vinh giao Trường Đại học Nha Trang triển khai đề tài “Đánh giá khả năng phát triển của hàu Thái Bình Dương và xây dựng mô hình nuôi thương phẩm tại vùng cửa sông tỉnh Trà Vinh”.
Hàu Thái Bình Dương (Crassostrea gigas) có nguồn gốc từ vùng Bắc Thái Bình Dương - bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc, được biết đến với tốc độ sinh trưởng nhanh, khả năng thích nghi rộng với biến động môi trường và chất lượng thịt cao. Loài hàu này được nhập khẩu vào Việt Nam nhằm đa dạng hóa đối tượng nuôi, đặc biệt ở các tỉnh ven biển và cửa sông.
Cụ thể, Đề tài đã thử nghiệm nuôi hàu Thái Bình Dương tại vùng cửa sông xã Long Toàn, thị xã Duyên Hải (cũ). Sau 11 tháng nuôi theo mô hình treo dây trên bè, hàu đạt chiều cao vỏ từ 66 - 67mm. Khối lượng trung bình mỗi con 69g, tỷ lệ thịt chiếm từ 18 đến 27%. Tốc độ sinh trưởng theo chiều dài và khối lượng lần lượt là 0,94%/ngày và 1,28%/ngày, chứng tỏ hàu phát triển đồng đều và nhanh chóng trong điều kiện tự nhiên của vùng cửa sông Trà Vinh. Tỷ lệ sống dao động từ 50 - 71%, năng suất nuôi đạt 6,61 kg/m², cao hơn so với các đối tượng hàu bản địa trước đây, cho thấy loài hàu này có khả năng thích nghi vượt trội và chất lượng thịt tốt. Kích thước hàu thương phẩm ổn định, vỏ chắc, màu sắc đồng đều và thịt dày, đáp ứng yêu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
Điều kiện môi trường tại vùng thí điểm nuôi cũng được ghi nhận thuận lợi cho sự phát triển của hàu Thái Bình Dương . Độ mặn ở trong khoảng 6 đến 20‰, trung bình 12‰ vào mùa mưa, và ở trong khoảng 10 - 22‰, trung bình 16‰ vào mùa khô. Nhiệt độ nước, độ trong và các yếu tố môi trường khác duy trì ở mức thích hợp, góp phần hạn chế hao hụt và duy trì chất lượng sản phẩm.
Theo nhóm thực hiện Đề tài, thời điểm thả nuôi để tối ưu hóa tốc độ sinh trưởng và chất lượng sản phẩm là vào đầu mùa khô, khi điều kiện môi trường ổn định.
Việc nuôi thử nghiệm được triển khai tại 3 hộ dân, cùng các lớp tập huấn kỹ thuật làm nền tảng cho việc nhân rộng mô hình.
Bài đăng KH&PT số 1360 (số 36/2025)
Nguồn: khoahocphattrien.vn
- Hoàn thiện quy trình sản xuất giống và nuôi ba khía (10/09/2025)
- Xây dựng mô hình trang trại chăn nuôi thông minh (10/09/2025)
- Nhân giống dược liệu làm cây cảnh (10/09/2025)
- Phát triển măng vót Sơn Tây theo chuỗi giá trị (10/09/2025)
- Thiết bị điện tử in 3D có thể tan trong nước (08/09/2025)
- Microsoft ra mắt mô hình Trí tuệ Nhân tạo đầu tiên tự phát triển (08/09/2025)
- Nhựa phân hủy được dưới biển sâu nhờ vi khuẩn (08/09/2025)
- “Da trong ống tiêm” – Kỳ vọng mới trong điều trị bỏng không để lại sẹo (05/09/2025)
- Đề xuất cơ chế siêu khấu trừ thuế đối với công nghệ chiến lược (05/09/2025)
- Dùng dầu sinh học sản xuất từ phế phẩm nông nghiệp lấp đầy các giếng nhiên liệu hóa thạch (05/09/2025)